Bác Sĩ Ðặng Trần Hào
Theo y khoa Ðông phương: “Gan khai khiếu tại mục.” Bất cứ sự mất quân bình nào của gan đều ảnh hưởng tới mắt, chẳng hạn gan hỏa vượng sinh ra mắt mờ, đỏ, khô v.v...
Gan là một trong năm tạng rất quan trọng và có những đặc tính: thuộc hành mộc, liên quan tới gân, giận dữ, khí sinh phát của mùa xuân, thuộc phong, thích chua.
Gan chủ về sơ tiết, điều hòa dương khí của toàn thân. Khí của gan thường can trường, cấp bức, thích vươn chơi thoải mái, và ghét gò bó, uất trệ.
Nếu gan khí hữu dư làm cho con người hay sợ sệt, kinh khiếp. Nếu gan khí sơ tiết quá độ sẽ xuất hiện chứng đau mắt, choáng váng, mắt đỏ, chảy nước mắt. Gan khí uất ức, không sơ tiết được thành bệnh gan khí uất kết như chứng tức ngực, nghẹt thở rất khó chịu, tưởng bị tim hành phải đi cấp cứu bệnh viện, đau một hay cả hai bên giang sườn.
Tinh hoa của gan hiện ra ở móng tay, móng chân. Nếu gan bị bệnh trầm trọng có thể làm móng tay đen lại. Gân bám vào xương, gân phần nhiều có liên hệ với gan.
Gan là một trong những tạng có nhiệm vụ thanh lọc rất quan trọng để bảo vệ sức khỏe của con người. Nhiệm vụ chính của gan là tẩy độc. Gan sẽ trung hòa tất cả những độc tố trong máu và di chuyển chúng xuống thận. Thận, ruột non và ruột già thanh lọc một lần nữa. Thanh đi ngược lên phế trở lại, còn trọc thì tống ra ngoài theo đường tiểu tiện và đại tiện. Gan còn chế biến tất cả những đồ ăn chúng ta ăn vào và chuyển hóa thành những dưỡng chất cần yếu để cơ thể chúng ta sẵn sàng hấp thụ.
Theo nghiên cứu của Bác Sĩ Bernad MD cho biết những chất mỡ và cholesterol sau khi gan thanh lọc chuyển xuống thận và ruột để tiếp tục thanh lọc nữa, nhưng muốn thanh tẩy những chất này cần phải có chất xơ. Có một số người không ăn rau trái và các hạt, nên không có chất xơ để chuyển những cholesterol, mỡ và tế bào ung thư ra ngoài, rồi chúng lại đi ngược về gan và cứ thế làm thành một vòng luẩn quẩn và càng ngày chất độc càng tích lũy càng nhiều mà gây ra bướu và ung thư là như vậy.
Thường người ta không để ý đến là gan nhiều, bởi vì là gan không trực tiếp nối với dây thần kinh. Vào lúc mà chúng ta cảm thấy có điều gì không ổn định với tạng này, thì hầu như lúc đó gan đã bị hủy hoại tới 75%. Lúc sự hư hoại đã xuyên qua lớp ngoài của lá gan và chạm tới những dây thần kinh, thì cảm giác đau đớn mới nhận được. Ðó là những triệu chứng báo động như: viêm gan, xơ gan và ung thư gan.
Gan là một tạng rất quan trọng nên chúng ta cần phải thanh lọc, và tẩy rửa giúp cho có khả năng làm đúng chức năng của nó.
Khi gan và mật không làm việc đúng chức năng, nhiều điều có thể xảy ra như mắt mờ, mắt khô, mắt ra nước ra mắt liên miên, sạn mật, đại tiện lỏng, không tiêu hóa kiện toàn...
Một khi gan và mật được nuôi dưỡng đầy đủ, thân thể được mạnh khỏe và quân bình, do đó cơ thể có thể hoán chuyển các chất mỡ, gia tăng sức mạnh cho gan và mật để thanh lọc và tẩy những độc chất khi chúng ta ăn vào, giúp cho tiêu hóa kiện toàn.
Muốn gan hoạt động tốt cần phải đủ ẩm độ, nếu gan nóng, mất đi sự ẩm thấp cần thiết sẽ giảm thiểu chức năng điều hòa dương khí và gan có khuynh hướng tạo ra những tình trạng ngoài tầm kiểm soát như giận dữ bất thường. Ði nghịch khí đưa lên phần trên đầu, mặt và nhất là gan khai khiếu tại mục, cho nên khi gan hỏa bốc lên phần trên làm ảnh hưởng mắt bị mờ dần và khô.
Mờ mắt do thận và gan âm suy
Thận và gan âm suy, gây ra hư hỏa âm ỉ đốt, làm tổn thương âm phận, gây ra mất ngủ hay ngủ chập chờn, lưỡi và cổ họng khô, miệng đắng, dễ giận, chóng, ăn không thấy ngon, lợm giọng nhưng không mửa, tức hai bên giang sườn, mệt mỏi, tiểu đêm...
Ðồng thời gây mắt mờ và khô mà Tây y gọi là thiếu thủy dịch, phải dùng nước nhân tạo nhỏ vào mắt hàng ngày, giúp cho mắt đủ độ ẩm.
Lưỡi: Khô và đỏ. Mạch huyền và sác.
Lục Vị Ðịa Hoàng Thang
Gia:
Toan táo nhân 9grs
Viên chí 6 grs
Thạch xương bồ 6 grs
Bá tử nhân 6 grs
Long đởm thảo 6 grs
Cát căn 6 grs
Sài hồ 9 grs
Chi tử 6 grs
Cam thảo 3 grs
-Toan táo nhân, viễn chí, thạch xương bồ, bá tử nhân: An tâm và ngủ ngon.
-Sài hồ, long đởm thảo, cát căn, chi tử: Xơ gan, tả hỏa và trị khô mắt, chóng mặt.
-Cam thảo: Phối hợp các vị thuốc.
Mờ mắt do gan hỏa thượng nghịch
Mắt mờ, khô, đỏ, nhức đầu một bên như búa bổ, dễ giận, bồn chồn, đắng miệng, nước tiểu ít và đậm, táo bón, tức hai bên giang sườn, đầy hơi, xốn xang bao tử, nhưng ăn không được nhiều. Lưỡi đỏ và rêu lưỡi vàng. Mạch huyền.
Long Ðởm Tả Can Thang
Long đởm thảo 6 grs
Hoàng cầm 9 grs
Chi tử 6 grs
Trạch tả 9 grs
Xa tiền tử 9 grs
Mộc thông 6 grs
Sanh địa 12 grs
Sài hồ 9 grs
Ðương qui 9 grs
Cam thảo 3 grs
-Long đởm thảo: Thanh nhiệt gan và mật.
-Sài hồ: Giảm nhiệt kết trong gan và mật.
-Mộc thông, trạch tả, xa tiền tử: Lợi tiểu và tiêu viêm trong bàng quang.
-Sanh địa, đương quy: Bổ máu, giảm đau, tăng ẩm ướt.
-Chi tử, hoàng cầm, long đởm thảo: Tiêu độc và viêm.
-Cam thảo: phối hợp các vị làm việc nhịp nhàng.
Mắt mờ do gan dương vượng và gan âm suy
Trường hợp này gây ra do hai nguyên nhân là gan khí vượng, đồng thời gan âm suy. Tuy là hai, nhưng thật ra vì gan khí bị uất kết lâu ngày đưa tới can khí vượng và gan hỏa thượng nghịch, cộng với hư hỏa do gan âm suy, mà là ba nguyên nhân mới đúng. Vì gan khí uất kết, gây ra gan nóng, nếu tình trạng này kéo dài làm tổn thương gan âm, gây gan dương thượng nghịch và gan âm suy.
Tuy nhiên, trong lâm sàng trường hợp này hiếm xảy ra và rất là phức tạp, vì có nhiều triệu chứng khác nhau cùng một lúc. Cho nên cả ba trường hợp đều qui về gan hỏa vượng gây giận dữ bất thường. Gan khí uất, không sơ tiết được thành bệnh gan khí uất kết như chứng tức ngực, nghẹt thở rất khó chịu, tưởng bị tim hành phải đi cấp cứu bệnh viện, đau một hay cả hai bên giang sườn.
Vì đều qui về hỏa bốc lên gây ra, cho nên làm mắt mờ, đỏ và khô rất khó chịu. Mạch trường, sác và huyền. Lưỡi khô và đỏ.
Bài thuốc
Long đởm thảo 6 grs
Hoàng cầm 9 grs
Chi tử 6 grs
Trạch tả 9 grs
Xa tiền tử 9 grs
Mộc thông 6 grs
Sanh địa 12 grs
Sài hồ 9 grs
Mẫu đơn bì 9 grs
Sơn thù du 9 grs
Phục linh 9 grs
Cam thảo 3 grs
-Long đởm thảo, mẫu đơn bì: Thanh nhiệt gan và mật.
-Sài hồ, sơn thù du: Giảm nhiệt kết trong gan và mật.
-Mộc thông, trạch tả, xa tiền tử, phục linh: Lợi tiểu và tiêu viêm trong bàng quang.
-Sanh địa: Bổ máu, giảm đau, tăng ẩm ướt.
-Chi tử, hoàng cầm, long đởm thảo: Tiêu độc và viêm.
-Cam thảo: Phối hợp các vị thuốc.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét